Đi tìm Opaque (Dragon – Phần 2)
Trong phần trước, chúng tôi đã chỉ ra nền tảng màu sắc của Dragon là opaque. Màu trắng mà chúng ta thấy ở Dragon betta chính là Opaque Steel hay Opaque White mà mọi người vẫn biết lâu nay. Không hề có cái-gọi-là “dragon factor” bí ẩn nào cả. Mọi bằng chứng về màu sắc và lỗi tật đều ủng hộ điều này.
Nhưng chúng tôi cần thực hiện một số bầy lai thử nghiệm để chứng minh cho nhận định của mình, một lần và mãi mãi. Để làm được như vậy, chúng ta phải có khả năng phân lập Opaque từ Dragon.
Bước đầu tiên là cản với non-opaque Steel để màu ánh kim lan hết vây, rồi cận huyết F1 nhằm thu được cá trắng theo một tỷ lệ có thể dự đoán được. Nếu điều này xảy ra (mà chúng ta tin là sẽ xảy ra), thì cái-gọi-là “dragon factor” hành xử giống hệt với opaque bởi Opaque Steel cũng hóa trắng! Nhìn lại quá trình cản Dragon, chúng ta thấy màu trắng trên thân luôn có xu hướng lan ra vây và nếu nó bao phủ hết thì chúng ta sẽ có một con rồng trắng tinh. Theo cách này, Snow Dragon hay rồng trắng toàn thân đã xuất hiện từ lâu. Một khi cản với cá Steel, chúng ta muốn thúc đẩy điều này diễn ra nhanh hơn đồng thời hạn chế số kiểu hình ở đời lai đầu tiên, F1.
Những trống và mái Dragon mà chúng tôi sưu tập từ vài nguồn tỏ ra rất khó sinh sản, nhất là mái. Trên thực tế, chúng tôi không thể cản thành công Dragon với Dragon vì mái không chịu đẻ dẫu mọi dấu hiệu đều cho thấy nó “sắp” đẻ đến nơi: bụng căng, sừng trống. Điều chứng tỏ việc ngâm cá trong nước tetra (1) trước khi bán là khá phổ biến, hiện nhiều người áp dụng. Cá mái dường như rất nhạy cảm với tetra (cái thứ nước vàng chết tiệt trong bịch mà lần nào nhận cá cũng thấy). Trong thử nghiệm của chúng tôi, thật may có một trống Dragon sinh sản thành công trong tổng số bốn con. Cả hai mái Dragon đều vô sinh. Nước lá bàng, thậm chí đen sậm, không phải là nguyên nhân khiến cá khó sinh sản. Cá con vẫn nở và phát triển bình thường. Chúng an toàn hơn trong nước lá bàng. Đối tượng duy nhất mà nó có thể gây hại là bèo!
Những mái mà chúng tôi sử dụng đều là mái Xiêm đá, non-opaque, non-metallic, xuất phát từ các nguồn đáng tin cậy. Cá Xiêm đá được giữ gìn kín kẽ nên không có chuyện lai ra (breeding out) một cách bất cẩn.
Bầy F1: Cản Dragon với Steel nhằm thúc đẩy màu ánh kim lan ra vây và khảo sát các kiểu hình liên quan.
Copper Dragon (Opaque Copper, OpOpblbl++) x Steel (opopblblnmnm)
Kết quả theo lý thuyết gồm toàn bộ Heterozygous Opaque Gray (Opopblblnm+).
Kết quả thực tế: Số lượng: 88; metallic: toàn bộ; full mask: 0 (màu lên đến mặt nhưng đầu đen); hình dạng: toàn bộ đầu võng (trống rõ hơn mái), hàm nhỏ, mõm nhọn, vài con bản ngắn, gốc đuôi to; opaque: 2 mái thể hiện rõ dấu hiệu “lột” trên lưng; đốm vảy (reduced iridocyte): 31 nhỏ, rõ (khi soi kỹ thì tất cả đều có đốm vảy).
Bầy lai với toàn bộ metallic chứng tỏ cá cha là Red-Copper Dragon (thay vì Red-White Dragon như dự đoán ban đầu). Một mặt, đây có thể là hàng loại vì không được trắng tinh như Red-White Dragon; mặt khác, mật độ metallic thấp, chủ yếu tập trung ở đuôi, khiến cho việc nhận dạng khá khó khăn với người chưa quen, hoặc không có Red-White Dragon để so sánh.
F1: Toàn bộ bầy cá có cùng kiểu gien. Biến thiên về màu sắc có thể đến từ góc chụp, điều kiện sáng, mật độ và phân bố metallic, và biểu hiện của opaque ở từng cá thể. Opaque tác động lên ánh kim, khiến nó sáng hơn, ngả tông xanh ngọc.
(A1) Trống Red-Copper Dragon; (A2) Mái Steel.
(B1) Cách quan sát hiệu quả là thả cá vô chậu nước sâm sấp, dưới ánh sáng tự nhiên trong phòng. Việc chiếu sáng mạnh hóa ra lại khó phát hiện metallic; (B2-trái) Red-Copper Dragon với mật độ metallic tập trung chủ yếu ở đuôi; (B2-phải) Steel rõ ràng không có độ bóng.
(C1) Gray (blblnm+) với đốm vảy nhỏ (riri) màu xám bạc; (C2) Gray (blblnm+) với đốm vảy lớn (Ri-).
(D) Hai mái với biểu hiện “lột” khá rõ trên lưng, dấu hiệu của gien cẩm thạch, có lẽ bắt nguồn từ Dragon (các dòng Dragon ngày nay đều ít nhiều bị nhiễm marble).
(E) Gray (blblnm+) với đốm vảy nhỏ (riri). Tông xanh ngọc phảng phất ở đuôi và vây lưng.
(F) Gray (blblnm+) với đốm vảy lớn (Ri-) hoặc không đốm (RiRi). Tông xanh ngọc bao phủ toàn thân và vây.
Reduced iridocyte (ri) là biểu hiện đốm vảy, mà trong một số trường hợp hiện rõ ở lưng, và mờ nhạt ở bụng, có lẽ do kết hợp với spread iridocyte (Si). Tỷ lệ đốm vảy nhỏ cho thấy reduced iridocyte là gien đơn, lặn bất toàn mà trống cha Red-Copper Dragon mang một alen (mái mẹ Steel mang một alen). Theo ghi nhận, các bầy lai cá đồng x thuần dưỡng cũng cho kết quả tương tự, tức toàn bộ đốm vảy. Reduced iridocyte mang lại hiệu ứng “hạt bắp” cho vảy rồng.
Ở những cá thể với đốm nhỏ (riri), màu ánh kim không lan đến các cây tia (ray tree). Trong khi vài cá thể mà ánh kim lan hết đuôi đều thể hiện đốm lớn (Ri-).
Heterozygous Metallic Steel hay Gray (blblnm+) tồn tại hai kiểu hình. Ở những cá thể với reduced iridocyte đồng hợp (riri) tức đốm nhỏ, nó có màu xám bạc dưới ánh sáng mạnh hay đèn flash. Ở những cá thể với reduced iridocyte dị hợp (Riri) hay non-ri (RiRi) tức đốm lớn, nó ngả tông xanh ngọc sáng, có lẽ do tác động của opaque dị hợp. Khác biệt này theo chúng tôi dường như do độ dày của lớp ánh kim dưới tác động của reduced iridocyte chứ không phải là gien blond (2).
Bầy F2a: cận huyết những cá thể F1 đốm nhỏ (riri) với mục đích tái tạo Dragon.
Heterozygous Opaque Gray (Opopblblnm+) x Heterozygous Opaque Gray (Opopblblnm+)
Kết quả theo lý thuyết gồm ¼ opaque đồng hợp (homozygous opaque) hay “bột phấn” (powder) dễ nhận biết. Cá cha mẹ có đốm vảy nhỏ nên chúng ta mong đợi Dragon ở bầy con. Trong số cá bột phấn, sẽ có ¼ Red-White Dragon (OpOpblblnmnm), ½ Red-Gray Dragon (OpOpblblnm+) và ¼ Red-Copper Dragon (OpOpblbl++). Số ¾ còn lại gồm Steel, Gray và Copper dưới dạng non-opaque và opaque dị hợp (heterozygous opaque).
Kết quả thực tế: Chúng tôi quyết định tách riêng số cá “bột phấn” nhằm chăm sóc và theo dõi quá trình lên vảy của Dragon; khác biệt chỉ lộ rõ khi cá đã trưởng thành, trên 5 tháng tuổi; vì chú trọng vào đặc điểm đốm vảy (phấn, đều và đậm) nên tỷ lệ Dragon là rất thấp, bầy này chúng tôi chỉ thu được hai cá thể Red-Copper Dragon (ririOpOpblbl++) và Red-Gray Dragon (ririOpOpblblnm+). Cản cặp này sẽ không thu được Red-White Dragon trắng tinh (ririOpOpblblnmnm), muốn vậy phải cản Red-Gray Dragon với nhau, điều mà chúng tôi hy vọng thực hiện ở đời sau!
F2a: vảy lên rõ khi cá đã trưởng thành, trên 5 tháng tuổi.
(A) Red-Copper Dragon (ririOpOpblbl++), màu copper trên nền opaque đồng hợp trở nên nhạt nhòa, khó xác định nếu không quen mắt.
(B) Red-Gray Dragon (ririOpOpblblnm+), màu turquoise trên nền opaque đồng hợp trở nên nhạt nhòa, khó xác định nếu không quen mắt.
Bầy F2b: cận huyết những cá thể F1 với đốm lớn (Ri-) và ánh kim lan đến vây với mục đích tái tạo cá Opaque.
Heterozygous Opaque Gray (Opopblblnm+) x Heterozygous Opaque Gray (Opopblblnm+)
Kết quả theo lý thuyết gồm ¼ opaque đồng hợp (homozygous opaque) hay “bột phấn” (powder) dễ nhận biết. Trong số đó, sẽ có ¼ Opaque White (OpOpblblnmnm), ½ Opaque Gray (OpOpblblnm+) và ¼ Opaque Copper (OpOpblbl++). Số ¾ còn lại gồm Steel, Gray và Copper dưới dạng non-opaque và opaque dị hợp (heterozygous opaque).
Kết quả thực tế: Vì có quá nhiều kiểu gien và tính trạng liên quan, chúng tôi quyết định tách riêng số cá “bột phấn” nhằm chăm sóc và theo dõi sát sao mà không xét đến tỷ lệ của chúng. Đúng như dự đoán, chúng tôi phát hiện được cả ba kiểu hình ở số cá trắng này, bao gồm Homozygous Opaque Steel (OpOpblblnmnm) hay “Opaque White”, Homozygous Opaque Gray (OpOpblblnm+) hay “Platinum”, và Homozygous Opaque Copper (OpOpblbl++). Cá Xiêm mái gốc không mang gien Opaque, vì vậy gien này chỉ có thể đến từ trống gốc Dragon. Chất lượng của chúng thực ra chỉ đáng gọi là Pastel tức Opaque-geno, màu trắng chưa lan đến đầu và còn nhiễm đỏ nhưng điều quan trọng là chúng ta đã chứng minh được DRAGON MANG GIEN OPAQUE!
F2b: Có 6 kiểu gien với kiểu hình tương ứng. Khác biệt chỉ lộ rõ khi cá đã trưởng thành, trên 5 tháng tuổi, nhất là trong trường hợp vảy trắng hay opaque đồng hợp (OpOp).
(A) Các sắc thái của Steel. (A1) Steel (opopblblnmnm); (A2) Heterozygous Opaque Steel (Opopblblnmnm) hơi sáng hơn, ngả tông turquoise dưới tác động của alen opaque (rất khó phát hiện nếu không biết rõ kiểu gien của cá cha mẹ); (A3) Homozygous Opaque Steel hay “Opaque White” (OpOpblblnmnm), đây là màu trắng tinh khiết, không tỳ vết.
(B) Các sắc thái của Gray. (B1) Gray (opopblblnm+); (B2) Heterozygous Opaque Gray (Opopblblnm+) có độ bóng, sáng hơn, ngả tông turquoise dưới tác động của alen opaque; (B3) Homozygous Opaque Gray hay “Platinum” (OpOpblblnm+), màu turquoise trên nền opaque đồng hợp trở nên nhạt nhòa, khó xác định nếu không quen mắt, thường nổi rõ ở phần gốc và tia của các vây lẻ.
(C) Các sắc thái của Copper. (C1) Copper (opopblbl++); (C2) Heterozygous Opaque Copper (Opopblbl++) có độ bóng, sáng hơn dưới tác động của alen opaque, ngày xưa vẫn được coi là “Dragon”; (C3) Homozygous Opaque Copper (OpOpblbl++), màu copper trên nền opaque đồng hợp trở nên nhạt nhòa, khó xác định nếu không quen mắt, thường nổi rõ ở phần gốc và tia đuôi.
Ở những cá thể với bột phấn tức opaque đồng hợp, nền luôn nhạt, thân trắng trong như Cambodian. Dường như việc sản xuất bột phấn đã tiêu tốn toàn bộ năng lượng của cá vào thời giai đoạn đầu đời này hoặc giả Cambodian là gien liên kết (linked gene) đi cùng với opaque? Đây có lẽ là nguyên nhân khiến Pastel và Opaque luôn bị xếp vào nền nhạt. Điều thú vị là, số cá ánh kim cùng bầy có nền đen sẫm, chứng tỏ hắc tố vẫn phát triển bình thường dưới dạng non-opaque hay opaque dị hợp. Cá trắng cũng thường nhỏ con và lớn chậm so với những con cùng bầy.
Thảo luận
Chúng ta đã đặt giả thiết Dragon mang yếu tố opaque, thực hiện một số bầy lai và so sánh kết quả với dự đoán theo lý thuyết. Tất cả đều trùng khớp, và quan trọng là, chúng ta đã phân lập được Opaque White từ Dragon.
GIẢ THIẾT ĐÃ ĐƯỢC CHỨNG MINH !!!
Kết quả này rất có ý nghĩa về mặt lai tạo. Các nhóm chơi Dragon betta bấy lâu nay hầu như không cản ra (breeding out) khiến dòng cá ngày càng bị suy về khía cạnh sinh sản. Cá giống, nhất là mái, được bảo mật khắt khe, hoặc ngâm tetra cho vô sinh trước khi bán ra; thậm chí cả cá trống cũng được xử lý tương tự. Kết quả, chúng ta chẳng còn thấy mấy con White Dragon vảy trắng tinh và mỗi khi thấy một con, mọi người đều phải trầm trồ. Cá rao bán trên thị trường hầu như là Red-Copper Dragon và thỉnh thoảng là Red-Gray Dragon. Thực hành ở đây chứng tỏ việc tái tạo rồng vảy trắng là không quá khó khăn. Hãy mạnh dạn cản Copper Dragon với Steel mà bạn có thể kiếm ra (thường mái Xiêm), rồi chọn những con đốm vảy nhỏ và cận huyết để thu được một số rồng vảy trắng. Nếu muốn tăng số lượng, bạn có thể cản nhiều bầy đồng thời. Từ số Dragon được bổ sung máu mới này, bạn có thể lai tạo và duy trì dòng Dragon trắng sáng của riêng mình.
Quan trọng hơn cả, một khi nắm vững nền tảng di truyền của Dragon, bạn có thể làm điều mình muốn và khi mình muốn mà không quá phụ thuộc vào nguồn cá giống. Thậm chí, bạn có thể tự tái tạo Dragon từ những chất liệu cơ bản nhất như đốm vảy (ri), steel (bl), metallic (+) và opaque (Op) !!!
Khi nhìn vào cấu trúc phân loại màu sắc của IBC (3), cá Opaque (và Pastel) chỉ tồn tại trong bảng Nhị sắc – Ánh Kim – Nền Nhạt. Bảng Nhị sắc – Ánh Kim – Nền Sẫm bỏ trống. Dragon (nhất là Black Dragon) chèn vào chỗ trống này. Đấy là nhờ công lao của đội lai tạo Interfish khi trình làng Dragon vào 2004. Dragon được lai tạo từ “super” red, red copper và Betta mahachaiensis. Bằng cách nào đó, opaque đã lẫn vào và làm nên sự khác biệt ở Dragon. Trong quá khứ, từng có nhiều bài viết và vô số bàn luận về Dragon (4)(5). Giờ chúng ta đã biết rằng không có yếu tố di truyền chưa biết nào ở đây, mà chẳng qua là một sự kết hợp mới lạ vào thời điểm đó.
VẬY DRAGON LÀ GÌ ?
nguồn Diendancacanh