Artemia là thức ăn tươi sống được sử dụng trong sản xuất giống thủy sản. Việc sử dụng ấu trùng Artemia Nauplius nở từ trứng với số lượng lớn có giá thành cao, đồng thời chất lượng trứng (tỷ lệ nở) không kiểm soát được. Để hạn chế việc này, người ta sử dụng nguồn sinh khối Artemia nhằm làm giảm số lượng Artemia Nauplius mà hiệu quả lại cao hơn.
Xử lý nước
Chuẩn bị các bể ximăng có thể tích 5 – 7 m3, được lắp sục khí và thắp đèn đầy đủ (nếu tối). Bể được cọ rửa và xử lý bằng formol đầy đủ cẩn thận trước khi đưa vào sử dụng.
Nước nuôi Artemia được lấy trực tiếp vào bể nuôi sinh khối qua túi lọc 5 Micromet có nồng độ muối 28 – 30‰. Sau đó nước được xử lý bằng Chlorine với nồng độ 30 ppm. Khuấy cho hóa chất tan trong nước rồi tạt vào bể và để yên trong 1 giờ. Sau đó tiến hành sục khí liên tục trong 2 ngày để lượng hóa chất tồn dư bị loại ra khỏi nguồn nước xử lý. Trước khi sử dụng phải kiểm tra lượng Chlorine tồn dư trong nước bằng thuốc thử Chlorine; nếu không thấy màu vàng xuất hiện thì có thể sử dụng; nếu thấy nước có màu vàng (vẫn còn Chlorine) thì cần trung hòa bằng Thiosunphat Natri (Na2S2O3). Sau khi trung hòa, kiểm tra lại lần nữa mức độ tồn dư của Chlorine, nếu vẫn còn thì tiến hành trung hòa tiếp cho đến khi lượng Chlorine tồn dư biến mất thì nước có thể sử dụng được.
Gây màu nước
Có thể gây trực tiếp vào bể nuôi Artemia sinh khối hoặc gây ở bể khác rồi bơm vào bể nuôi. Gây màu như sau: Phân hữu cơ với lượng 3 – 5 kg/10 m3 kết hợp với phân vô cơ (Ure, NPK) tỷ lệ 3:1 với liều 2 – 3 g/m3, định kì bón 1 – 2 lần/tuần. Phân phải được ủ kĩ trước khi sử dụng. Tốt nhất nên gây màu ở ngoài rồi bơm vào bể nuôi để đảm bảo vệ sinh. Khi nước gây màu có màu xanh nâu hoặc xanh lục, độ trong 15 – 20 cm có thể bơm vào bể nuôi.
Ấp trứng Artemia
Trứng Artemia tốt nhất là Artemia Vĩnh Châu cho ấu trùng khỏe và tỷ lệ nở cao nhất, chất lượng cũng đảm bảo. Cũng có thể dùng Artemia Inve hoặc Mỹ.
Tính số lượng trứng nở: Tùy vào mật độ mà số lượng trứng nở được tính theo công thức sau:
D: mật độ nuôi (cá thể/L)
S: diện tích nuôi (m2)
De: chiều cao cột nước (m)
300.000: số ấu trùng nở từ 1 g trứng khô
Dụng cụ cho nở là xô nhựa có thể tích 4 lít và chai nước khoáng 1,5 lít. Cung cấp ánh sáng bằng đèn neon liên tục trong suốt quá trình ấp trứng, đèn đặt cách xô ấp 20 cm.
Nhiệt độ ấp: 28 – 300C; Độ mặn: 30‰; Mật độ ấp: 3 g/lít; Sục khí mạnh và liên tục.
Sau 18 – 20 giờ, quan sát thấy trứng đã nở thì tiến hành thả giống. Lúc này đa số ấu trùng ở giai đoạn Instar I (khả năng thích ứng cao với những biến đổi của môi trường), rất thuận lợi trong việc cấy thả.
Ảnh: Phan Thanh Cường
Thả giống
Giống sau khi ấp nở được lọc rửa cẩn thận rồi đem thả ở giai đoạn Instar I vào lúc trời mát. Mật độ thả giống ban đầu 1.000 – 1.500 Nauplius/lít. Chỉ thả giống khi điều kiện thủy lý của bể nuôi đạt tiêu chuẩn như sau hoặc chênh lệch không đáng kể:
Độ mặn: 28 – 32 ppt; Nhiệt độ: 28 – 320C; pH: 7,7 – 8,1; Mực nước tối thiểu 40 cm.
Cách thả giống: Chia nhỏ giống và thả ở nhiều địa điểm trong bể nuôi; trước khi thả múc nước trong bể ương cho chảy từ từ vào xô đựng giống cho giống quen dần với nước trong bể nuôi. Nên thả vào vị trí các quả khí nhằm tránh trường hợp giống bị vón cục khi thả vào bể nuôi.
Chăm sóc và quản lý
Hằng ngày theo dõi nhiệt độ và quan sát Artemia. Nuôi Artemia có thể dùng nhiều loại thức ăn; thường dùng: bột đậu nành rang hoặc bột đầu nành tươi, cám gạo, cám ủ bằng men bánh mì với hàm lượng 1 g men/kg cám ủ trong vòng 24 giờ, ở nhiệt độ 250C, bột mì tinh. Cho ăn 0,5 kg/100 m2/ngày.
Thức ăn được hòa vào nước và lọc qua lưới lọc 50 µm, lấy phần lọt qua lưới cho ăn, hạn chế thức ăn thừa. Sục khí nhẹ giúp cho ấu trùng bắt mồi dễ.
Hằng ngày cung cấp tảo Nano Chloropsis hoặc Chlorella vào bể nuôi lượng 2 – 3 m3/100 m2/ngày. Thay nước 50% vào ngày thứ 5, sau 1 tuần thay nước 100%. Xi phông nếu có thức ăn thừa lắng xuống đáy.
Thu hoạch
Thông thường tốc độ tăng trưởng của Artemia là 0,5 mm/ngày, sau 1 tuần thì nhanh gấp đôi và tỷ lệ sống đến giai đoạn thu hoạch là 60 – 70%. Trước khi thu, ngắt khí để Artemia trưởng thành nổi lên trên, sau đó dùng lưới có kích thước mắt lưới 1 mm để thu Artemia sinh khối bằng cách vớt Artemia sinh khối nhẹ nhàng. Thường Artemia sau 15 – 18 ngày là có thể thu tỉa, vì trong bể lúc này có Nauplii Artemia; nếu không tiến hành thu sẽ dẫn tới hiện tượng hao hụt số lượng do sự cạnh tranh về môi trường sống và thức ăn, đồng thời giảm hiện tượng Artemia bị túm thành từng túm buộc lại với nhau trong bể nuôi. Thu tỉa lâu nhất đến hết ngày thứ 40 phải hoàn thiện. Thu hoạch lúc trời mát, khoảng 5 – 6 giờ sáng là thuận lợi nhất. Sau khi thu Artemia sinh khối đem rửa sạch và sử dụng vào các mục đích khác nhau. Năng suất sinh khối có thể đạt 3,3 – 3,5 kg/10 m2. Lượng Artemia sinh khối càng nhiều càng có hiệu quả cao trong việc sử dụng nhằm hạn chế ấu trùng thủy sản ăn nhau khi đến giai đoạn lớn.
>> Nhiều kết quả thí nghiệm đã chứng minh, Artemia mới trưởng thành có hàm lượng dinh dưỡng cao hơn ấu trùng mới nở, với hàm lượng đạm trên 50%, chất béo trên 10% và HUFA trong khoảng 0,3 – 1,5 mg/DW. Sinh khối Artemia trưởng thành càng lớn càng thay thế cho nhiều loài thức ăn khác như Moina, trùn chỉ… |