KỸ THUẬT NUÔI MOINA (BO BO)
Phần 1
GIỚI THIỆU VỀ MOINA
I. GIỚI THIỆU
– Daphnia là loài giáp xác nước ngọt nhỏ gọi là rận nước. Tên này không những ám chỉ đến kích thước bé nhỏ mà còn ở chuyển động giật cục của chúng trong nước. Các chi rận nước (Daphnia) và trứng nước (Moina) có quan hệ họ hàng gần với nhau. Chúng xuất hiện ở khắp nơi trên thế giới và thường được gọi dưới tên chung là daphnia.
– Cấu tạo cơ thể của trứng nước gồm đầu và thân. Râu là phương tiện di chuyển chính. Đôi mắt lớn nằm dưới lớp da ở hai bên đầu. Một trong những đặc điểm chính đó là cơ thể chúng được bao phủ bởi một khung xương. Chúng tự lột lớp vỏ dày một cách định kỳ. Túi ấp nơi trứng và ấu trùng phát triển nằm trên lưng của con cái. Ở rận nước túi này đóng kín nhưng ở trứng nước (hay bo bo) nó lại mở.
– Có sự khác biệt đáng kể về kích thước giữa các chi. Trứng nước có kích thước tối đa chỉ bằng một nửa rận nước. Trứng nước trưởng thành (700 – 1000 µm) có kích thước gần gấp đôi ấu trùng artemia (500 µm) và gần gấp 2 – 3 lần kích thước của trùng bánh xe trưởng thành (rotifer). Tuy nhiên trứng nước mới nở (nhỏ hơn 400 µm) gần bằng hay hơi lớn hơn trùng bánh xe trưởng thành và nhỏ hơn ấu trùng artemia.
– Cá bột của một số loài cá nước ngọt có thể ăn trứng nước ngay từ khi mới nở. Tuy nhiên, cần biết rằng trứng nước rất khó phân tách theo kích thước. Thí nghiệm lọc trứng nước bằng lưới nhuyễn kích thước 500 µm tại UF/IFAS Tropical Aquaculture Laboratory cho kết quả với số lượng không đáng kể. Trong chăn nuôi, cần lưu ý đến khối lượng trứng nước tiêu thụ vì chúng lớn rất nhanh, cá bột không ăn nổi. Nếu những con trứng nước lớn này tập trung với mật độ cao, chuyển động giật cục của chúng có thể gây hoảng sợ cũng như tổn thương cho cá bột.
– Ở Singapore, loài Moina micrura nuôi trong ao hồ lớn chủ yếu bằng phân gà hay phân heo, được sử dụng làm thức ăn chính cho cá bột của các loài cá cảnh nhiệt đới, tỷ lệ cá sống bình quân lên đến 95 – 99% ở kích thước 20 cm. Không may, có rất ít thông tin về phương pháp nuôi trứng nước đại trà và nếu có thì chỉ là những bản đánh máy hay xuất bản hạn chế.
II. MÔI TRƯỜNG SỐNG
– Bo bo (trứng nước) xuất hiện với mật độ cao ở các ao, hồ, vũng nước, dòng chảy chậm và đầm lầy nơi có nhiều chất hữu cơ. Chúng đặc biệt tập trung ở những vùng nước ấm nơi có đầy đủ điều kiện để chúng phát triển.
– Bo bo hoàn toàn thích nghi với nguồn nước kém chất lượng. Chúng có thể sống nơi nồng độ oxy hòa tan từ 0 cho đến bão hòa. Bo bo đặc biệt thích nghi với sự biến đổi của nồng độ oxy và thường sinh sôi với số lượng lớn trong môi trường nước ô nhiễm ở cống rãnh. Bo bo được cho là có vai trò quan trọng trong việc xử lý các hồ chứa nước thải. Chúng có thể sống sót trong môi trường nghèo oxy nhờ khả năng tổng hợp hemoglobin. Sự hình thành hemoglobin dựa trên mức độ oxy hòa tan trong nước. Hemoglobin có lẽ cũng phát sinh bởi nhiệt độ cao và mật độ bo bo.
– Bo bo chịu đựng được tầm nhiệt độ rất cao và dễ dàng vượt qua biến đổi nhiệt độ trong ngày từ 5 – 31°C, nhiệt độ tối ưu với chúng là 24 – 31°C. Khả năng chịu đựng tốt của bo bo là điểm thuận lợi đối với các trang trạng kinh doanh cá ở miền Nam nước Mỹ và việc ươm nuôi làm thức ăn cho cá cảnh tại nhà.
III. THỨC ĂN
– Bo bo ăn các loại vi khuẩn, men bia, vi tảo và mùn bã hữu cơ (thối rữa). Vi khuẩn và nấm men có giá trị dinh dưỡng cao. Số lượng bo bo phát triển nhanh nhất khi lượng vi khuẩn, men bia và vi tảo dồi dào. Bo bo là một trong những sinh vật phù du có thể tiêu thụ tảo xanh Microcystis aeruginosa. Cả bã hữu cơ động lẫn thực vật đều cung cấp năng lượng cho sự tặng trưởng của bo bo. Chất lượng của mùn bã hữu cơ phụ thuộc vào nguồn gốc và độ tuổi của chúng.
IV. VÒNG ĐỜi
– Bo bo có thể sinh sản theo cách vô tính và hữu tính. Thông thường, bo bo gồm toàn con cái sinh sản theo cách vô tính. Ở điều kiện tối ưu, bo bo cái từ 4 – 7 ngày tuổi bắt đầu sinh sản với số lượng từ 4 – 22 con. Mỗi lứa cách nhau từ 1 – 2 ngày, mỗi con cái đẻ từ 2 – 6 lần trong đời.
– Ở điều kiện môi trường bất lợi, con đực xuất hiện và sinh sản hữu tính bắt đầu, tạo ra trứng tiềm sinh tương tự như trứng artemia. Điều kiện chuyển đổi từ sinh sản vô tính sang hữu tính ở bo bo là việc cắt giảm nguồn thức ăn, kéo theo nhiều trứng được tạo ra. Như vậy, việc cung cấp đầy đủ thức ăn là cần thiết vì nó kích thích bo bo sinh sản theo cách vô tính, nhờ đó có rất ít số lượng trứng tiềm sinh được tạo ra.
– Mật độ cao ở rận nước có thể làm sự sinh sản sụt giảm một cách đáng kể nhưng điều này không xảy ra ở bo bo. Số lượng trứng sinh ra ở rận nước Dapnia magna sụt giảm mạnh khi mật độ từ 95 – 115 cá thể trưởng thành trên 25 – 30 lít. Mật độ nuôi thích hợp ở rận nước được ghi nhận là 500 con/lít. Tuy nhiên, mật độ nuôi thích hợp ở bo bo là 5000 con/lít và do đó chúng thích hợp trong chăn nuôi thâm canh.
– So sánh sự sinh sản trong các hồ nuôi Daphnia magna và Moina macrocopa bón bằng men bia và ammonium nitrate NH4NO3 cho thấy lượng thu hoạch ở bo bo (106 – 110 g/m3) lớn gấp 3 – 4 lần so với thu hoạch ở rận nước (25 – 40 g/m3). Khối lượng thu hoạch hàng ngày ở bo bo với thức ăn vi tảo nuôi bằng phân hữu cơ đạt 375 g/m3.
V. GÍA TRỊ DINH DƯỠNG
– Giá trị dinh dưỡng của bo bo (trứng nước) phụ thuộc vào độ tuổi và loại thức ăn mà chúng được nuôi. Dù vậy, lượng protein ở bo bo chiếm 50% khối lượng khô. Bo bo trưởng thành chứa nhiều chất béo hơn bo bo non. Lượng chất béo chiếm 20 – 27% khối lượng khô ở bo bo cái trưởng thành và 4 – 6% ở bo bo non.
Phần 2
KỸ THUẬT NUÔI MOINA
– Nguyên tắc sản xuất bo bo dựa trên chuỗi bầy nuôi liên tiếp. Bầy nuôi mới được tạo ra hàng ngày trong các bồn chứa riêng biệt. Khi tất cả nấm men, vi khuẩn và tảo được tiêu thụ hết, thường 5 – 10 ngày sau khi ươm, bo bo được thu hoạch và bầy khác được ươm tiếp. Nguyên tắc này đặc biệt thích hợp khi có một số lượng nhất định bo bo được thu hoạch mỗi ngày bởi vì việc sản xuất hàng ngày được điều khiển tốt hơn nhiều.
– Một nhóm bồn nuôi cũng thích hợp để duy trì sự đồng nhất vì rất ít khả năng bo bo có đối thủ cạnh tranh ( chẳng hạn như sinh vật đơn bào, trùng bánh xe, giáp xác copepod) hay những kẻ săn mồi (như thủy tức, bọ gạo, ấu trùng bọ bắp cày hay cà niễng, ấu trùng chuồn chuồng hay con xin cơm).
– Bồn nuôi có thể duy trì đến 2 tháng hay hơn bằng việc thu hoạch hàng ngày, thay nước, cho ăn thường xuyên và duy trì tốc độ tăng trưởng. Sau đó, bồn nuôi sẽ không sinh sôi nhanh chóng khi bón thức ăn. Khi chúng không còn phát triển tốt nữa, nên thu hoạch toàn bộ bo bo và bắt đầu nuôi bầy mới.
– Bo bo có thể được sản xuất bằng cách nuôi kết hợp với thức ăn của chúng hay nuôi riêng rẽ. Nuôi kết hợp đơn giản hơn nhưng nuôi riêng rẽ lại cho kết quả tốt hơn.
– Khi nuôi riêng rẽ, bồn nuôi vi tảo được đặt sao cho nó chảy vào bồn bo bo (hình 2). Sản xuất từ những bồn riêng biệt có điểm bất lợi là cần nhiều không gian để nuôi vi tảo. Tuy nhiên cũng có điểm thuận lợi là ít có khả năng lây nhiễm bệnh, điều khiển tốt hơn và thu hoạch được nhiều bo bo hơn.
* Lưu ý: dù áp dụng cách nuôi dưỡng nào cũng luôn phải duy trì hàng loạt hồ nuôi bo bo để đề phòng trường hợp chúng bị chết.
I. BỒN NUÔI
– Bồn nuôi trung bình có thể tích khoảng 38 lít. Tuy nhiên, thể tích này chỉ đủ cung cấp cho nhu cầu của một người nuôi cá bình thường. Để nuôi với mục đích thương mại thì phải sử dụng bồn chứa, hồ nhân tạo (bằng xi măng, kim loại, plastic hay sợi thủy tinh) và hồ đất. Ngoài ra, bất cứ vật dụng nào cũng có thể được tận dụng như bồn tắm cũ, bồn rửa chén, ngăn tủ lạnh và chậu nhựa. Đừng sử dụng loại bồn kim loại ngoại trừ chúng được làm bằng loại thép không rỉ.
– Trong những bồn chứa lớn, độ sâu của nước không nên vượt quá 90 cm, từ 40 đến 50 cm là lý tưởng. Mực nước nông giúp các sinh vật phù du quang hợp và nồng độ ôxy hòa tan được tốt hơn.
– Bồn nuôi bo bo nên để ở nơi có ánh sáng khuyếch tán và bóng râm. Môi trường có cây cối và mái che bằng vải bạt (giảm 50-80% cường độ chiếu sáng) là lý tưởng. Bồn nuôi cần được che mưa để tạo độ ổn định và chắn lưới để phòng ngừa các loại côn trùng ăn thịt.
– Bồn nuôi không cần phải giữ quá sạch nhưng một số thứ như tảo sợi và ấu trùng của các loài côn trùng ăn thịt (lăng quăng, chuồn chuồn, bọ…) có thể làm giảm sản lượng bo bo. Bồn nuôi cần được sát trùng trước bằng cách phơi khô hay tẩy bằng dung dịch acid nhẹ HCl có nồng độ 30%.
II. MÔI TRƯỜNG NƯỚC
– Bo bo rất nhạy cảm với các chất hóa học và kim loại (như đồng, kẽm là những chất thường xuất hiện trong nước máy), bột giặt, chất tẩy và những chất độc hại khác trong nguồn nước. Phải đảm bảo bồn nước không bị nhiễm những chất độc trên. Nên xục khí nước máy trong ít nhất hai ngày để chlor bay hơi, hay bỏ chất trung hòa chlor như sodium thiosulfate (Na2S2O3) nếu muốn rút ngắn thời gian. Nguồn nước tự nhiên là lý tưởng. Nước mưa cũng rất tốt để nuôi bo bo nếu được hứng từ vùng không bị ô nhiễm không khí. Nước đã qua xử lý lọc cũng có thể dùng được.
– Nhiệt độ lý tưởng để nuôi bo bo là từ 24 đến 31°C. Chúng chỉ có thể chịu đựng được nhiệt độ cao hơn 32°C trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, nhiệt độ thấp khiến chúng sinh sản chậm lại.
III. SỤC KHÍ
– Xục khí giúp cung cấp ôxy hòa tan cho bo bo, trộn đều thức ăn và gia tăng lượng sinh vật phù du, dẫn đến kết quả là gia tăng số lượng trứng, số lượng bo bo cái mang trứng và mật độ bo bo. Duy trì một dòng chảy nhỏ trong bồn cũng giúp gia tăng sự sinh sản. Hồ có dung tích 1.5 m3 chỉ cần duy trì từ 1 đến 2 ống xục khí. Nên tránh điều chỉnh để bọt khí thật yếu vì đầu xục có thể bị kẹt làm bo bo ngộp thở nổi lên mặt nước và có thể chết.
IV. THỨC ĂN
– Dưới đây là danh sách và tỷ lệ một số loại thức ăn dành cho bo bo. Hãy cho chúng ăn nhiều loại thức ăn khác nhau để tìm xem đâu là loại thích hợp nhất cho bo bo của bạn. Tỷ lệ thức ăn ở đây chỉ để tham khảo và bạn cần điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện nuôi dưỡng của mình.
– Lượng thức ăn được tính toán trên thể tích nuôi là 379 lít. Lượng thức ăn sẽ tăng thêm từ 50 -100% sau khoảng 5 ngày nuôi:
+ Men làm bột bánh mì: 8,5-14,2 g.
+ Men và phân hóa học: 8,5-14,2 g men và 14,2 g ammonium nitrate (NH4NO3)
+ Men, cám và cỏ linh lăng (alfalfa): 8,5 g men, 42,5 g cám gạo hay lúa mạch và 42,5 g cỏ.
+ Men, cám và phân bò hay bùn: 8,5 g men, 42,5 g cám gạo hay lúa mạch và 142 g phân bò hay bùn.
+ Men, hạt bông và phân bò hay bùn: 8,5 g men, 42,5 g hạt bông hay lúa mạch và 142 g phân bò hay bùn.
+ Phân bò hay phân ngựa khô hay bùn: 567 g phân khô hay bùn.
+ Phân gà hay heo khô: 170 g phân khô.
+ Men và bột tảo spirulina: 6 g bột bánh và 3 g bột tảo. Cho bo bo ăn hỗn hợp này trong hai ngày trước khi thu hoạch. Chú ý: trộn nước ấm vào men và bột tảo và để khoảng 30 phút. Khuấy đều và đổ vào bồn nuôi bo bo qua lưới lọc nhuyễn. Lưới sẽ lọc hết cặn bã.
– Phân hữu cơ thường tốt hơn phân hóa học vì cung cấp vi khuẩn, nấm, bã hữu cơ và sinh vật phù du là những thức ăn của bo bo. Có rất nhiều thứ có thể làm thức ăn cho bo bo với kết quả là chúng sinh sôi rất nhanh. Phân hóa học cũng có thể dùng làm thức ăn nhưng tốt nhất nên dùng cho hồ đất hơn là bồn và hồ nhân tạo.
– Phân tươi tốt hơn vì chúng chứa nhiều chất hữu cơ và vi khuẩn. Tuy nhiên, chuồng gia súc cần được chống muỗi để phân không chứa lăng quăng làm ảnh hưởng đến đàn bo bo. Mặc dù không tuyệt đối cần thiết nhưng phân nên để cho khô trước khi sử dụng. Loại phân bò và bùn khô bán ngoài thị trường có thể được sử dụng để nuôi bo bo.
– Mặc dù phân gia súc thường được sử dụng để nuôi bo bo, các loại thức ăn khác như men, cỏ linh lăng (alfalfa) và cám tuy không tốt bằng nhưng cũng dùng được. Bột làm bánh, cám và cỏ linh lăng khô có bán ở các cửa hàng thực phẩm.
– Những chất hữu cơ thô như phân gia súc, bùn, cám và dầu thực vật thường được đựng trong túi lưới. Khăn, vải lọc, bao nylon hay bất loại sợi dệt nào đều có thể được sử dụng tuy nhiên túi nylon và sợi tổng hợp không bị mục như vải và khăn. Với bồn lọc nhỏ, vớ nylon sử dụng rất phù hợp, rẻ tiền và thuận tiện. Sử dụng túi để loại bỏ cặn khi thu hoạch bo bo và cho phép điều khiển việc cho ăn tốt hơn.
– Cho quá nhiều thức ăn có thể làm nước mau dơ. Dù nuôi bằng loại bồn nào thì cũng nên cho ăn nhiều lần, mỗi lần một ít rồi tăng dần một khi bạn đã có kinh nghiệm. Nếu nấm men xuất hiện trong bồn chứa vì nước quá màu mỡ, bao chứa chất hữu cơ nên được lấy ra. Nếu nấm men phát triển quá mạnh, nên xả bồn chứa và làm lại từ đầu.
– Độ pH quá cao (lớn hơn 9.5) do rêu phát triển mạnh và sự gia tăng nồng độ chất độc ammonia (không phân ly) có thể hạn chế sự phát triển của bo bo. Độ pH của bồn nuôi nên điều chỉnh ở mức từ 7-8 bằng dấm ăn (acetic acid).
V. ƯƠM NUÔI
– Sử dụng con giống thuần để ươm. Tránh sử dụng con giống yếu hoặc thoái hoá, con giống đẻ trứng tiềm sinh hay con giống có lẫn loài săn mồi. Tỷ lệ gây giống khoảng 100 con bo bo/ 25 lít. Mặc dù trên lý thuyết chúng ta có thể chỉ cần bắt đầu bằng một con bo bo cái nhưng hãy luôn sử dụng một số lượng đầy đủ để phát triển đàn bo bo một cách nhanh chóng. Nếu ươm ít hơn, đàn bo bo sẽ phát triển chậm hơn do vậy số lượng thức ăn lúc đầu phải giảm xuống để tránh làm ô nhiễm nước. Nếu ươm nhiều hơn thì có thể thu hoạch sớm hơn và giảm nguy cơ nhiễm bệnh.
– Bo bo bắt đầu được ươm sau khi bồn được bón phân khoảng 24 giờ hay lâu hơn. Nhưng nếu bón bằng men bia thì có thể ươm bo bo sau vài giờ sục khí nếu chất lượng nước và nhiệt độ phù hợp bởi vì bo bo có thể ngay lập tức ăn các tế bào men. Một ít vi tảo hiện diện trong nước và bao tử của bo bo giống là đủ để chúng phát triển bùng phát.
VI. THEO DÕI VÀ CHĂM SÓC
– Theo dõi bồn nuôi hàng ngày để xác định tình trạng sức khoẻ của bo bo:
– Xác định sức khoẻ của bo bo bằng cách khuấy bồn nuôi, múc một muỗng lớn (15 ml) nước bồn rồi đem quan sát dưới kính lúp từ 8X đến 10X hay kính mổ. Bo bo màu xanh hay đỏ-nâu với bụng căng tròn và chuyển động linh hoạt là dấu hiệu của bầy nuôi khoẻ mạnh. Bo bo màu nhợt nhạt với bụng rỗng hay bo bo đẻ trứng là dấu hiệu của môi trường kém chất lượng hay thiếu thức ăn.
– Xác định mật độ của bo bo bằng cách nhỏ cồn 70 độ vào một muỗng trà nước bồn (3-5 ml) để giết và rồi đếm số lượng bo bo trên đĩa thí nghiệm bằng kính lúp hay kính mổ. Mật độ thu hoạch chứa từ 45-47 con trong một muỗng trà. Bằng kinh nghiệm, mật độ bo bo có thể được xác định thông qua quan sát mà không cần phải đếm.
– Mật độ thức ăn trong nước khi quan sát qua ly thuỷ tinh nên hơi xanh hay nâu nhạt như nước trà. Nước trong là dấu hiệu của sự thiếu thức ăn. Bồn nuôi nên được bón thêm từ 50-100% lượng thức ăn ban đầu nếu độ trong suốt lớn hơn 30-40 cm. Điều này có thể xác định bằng một đĩa nhựa trắng hay viền kim loại đường kính 10 cm, gắn vào một đầu gậy. Độ trong suốt là chiều sâu mà đĩa còn được nhìn thấy khi nhúng trong nước.
– Nếu phát hiện những loài săn mồi (như thuỷ tức, bọ gạo, ấu trùng bọ bắp cày hay cà niễng, ấu trùng chuồn chuồn hay con xin cơm) thì cần xả bồn nuôi, làm sạch và tiêu diệt chúng để khỏi làm ảnh hưởng đến vụ nuôi sau.
VII. THU HOẠCH
– Thu hoạch bằng cách dùng vợt lưới nhuyễn vớt những “đám mây” bo bo nổi trên mặt nước. Cũng có thể thu hoạch bằng cách xả hay hút nước qua lưới lọc kích thước từ 50-150 µm. Tắt máy xục khí và để thức ăn lắng xuống trước khi thu hoạch. Với bồn nuôi bán liên tục, không nên thu hoạch quá 20-25% bo bo mỗi ngày trừ khi bắt đầu nuôi lứa khác. Nếu thu hoạch bằng cách xả nước bồn thì cần phải thay nước trước khi thu hoạch. Thu hoạch mỗi lần một ít và thả bo bo vào bồn nước sạch để giữ chúng sống sót.
– Chất cặn dưới đáy bồn cần được quậy lên hàng ngày cùng với lúc thu hoạch để thức ăn nổi lên và ngăn cản vi khuẩn yếm khí phát triển.
Lưu ý:
– Các loài bo bo khác nhau về kích thước, sinh sản và điều kiện sống tối ưu. Cần điều chỉnh chế độ nuôi dưỡng tùy theo loài và dòng bo bo nhất định. Gia tăng diện tích bề mặt có thể thu được những kết quả tích cực trong sản xuất bo bo. Với rận nước, khi diện tích tăng lên gấp 4 lần nhờ đặt những tấm nhựa thì khối lượng thu hoạch cũng nhiều gấp 4 lần. Không rõ là nhờ chất lượng nước được cải thiện khi vi khuẩn phân huỷ ni-tơ bám trên các bề mặt, hay sự thay đổi phân bố của rận nước hay chế độ dinh dưỡng được cải thiện.
– Không nhất thiết phải sản xuất bo bo dựa trên nhu cầu tiêu thụ của cá bột. Lượng bo bo thu được có thể trữ nhiều ngày trong bồn nước sạch đặt trong tủ lạnh. Chúng sẽ tỉnh lại khi nhiệt độ ấm lên. Chất lượng dinh dưỡng của bo bo trữ lạnh có thể không tốt bởi vì chúng bị nhịn đói một thời gian, vì vậy bo bo nên được nuôi bằng vi tảo hay men bia trước khi đem cho cá ăn.
– Bo bo có thể được trữ lâu dài bằng cách trữ lạnh trong nước muối nồng độ thấp (nồng độ 7 ppt, 1.0046) hay trữ khô. Cả hai phương pháp đều làm bo bo chết vì vậy cần phải xục khí liên tục giữ chúng lơ lửng trong nước để cá bột có thể ăn. Bo bo đông lạnh và bo bo khô không bổ dưỡng bằng bo bo tươi và cá con cũng không chuộng thức ăn này lắm. Tuy nhiên, thành phần dinh dưỡng của bo bo đông lạnh và khô cũng không bị thay đổi nhiều, những chất dinh dưỡng không tan quá nhanh vào nước. Hầu hết những enzyme hoạt động bị phân huỷ trong vòng 10 phút sau khi bỏ bo bo vào nước. Sau một giờ, tất cả những acid amin tự do và acid amin kết hợp đều bị phân huỷ.